Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank – mã chứng khoán VPB) vừa công bố kết quả kinh doanh quý 1/2021 với những chuyển biến tích cực trong quản trị rủi ro và chất lượng tài sản, chi phí vốn được tối ưu hóa và tỷ trọng tiền gửi CASA tiếp tục tăng trưởng tốt. Bên cạnh đó, thu nhập từ phí gia tăng động lực tăng trưởng cho lợi nhuận và các chỉ tiêu an toàn hoạt động được củng cố.
Cụ thể, tính đến hết quý 1/2021, tổng tài sản hợp nhất của VPBank đạt hơn 436 nghìn tỷ đồng, tăng 4,1% so với cuối năm 2020. Tín dụng ngân hàng hợp nhất tại thời điểm 31/3/2021 đạt hơn 332 nghìn tỷ đồng, tăng 2,8% so với cuối năm 2020; trong đó ngân hàng riêng lẻ tăng 3,6%.
Tốc độ tăng trưởng trên bám sát diễn biến phục hồi của nền kinh tế và nhu cầu vay vốn có xu hướng mạnh hơn so với cùng kỳ những năm gần đây. Trong đó, tăng trưởng tín dụng tại VPBank tập trung ở các khối chiến lược với kết quả vượt kế hoạch đề ra cho 3 tháng đầu năm, gồm khối khách hàng cá nhân tăng trưởng gần 7% và khối khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng gần 11% so với cuối năm 2020.
Nhờ đa dạng hóa doanh thu, tăng trưởng tín dụng hợp lý, giảm thiểu chi phí vốn và tối ưu hóa chi phí hoạt động, tổng lợi nhuận hợp nhất trước thuế của VPBank quý 1/2021 tăng tới 37,6% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 4.000 tỷ đồng, trong đó ngân hàng riêng lẻ đạt mức tăng trưởng 55,2%. Với kết quả này, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản ROA và tỷ suất lợi nhuận trên vốn ROE tương ứng đạt 3% và 23,5%, so với mức cuối năm 2020 là 2,6% và 22% – thuộc nhóm cao của toàn ngành.
Trong quý 1/2021, thu nhập từ phí tiếp tục có đóng góp lớn vào doanh thu của VPBank khi tăng trưởng hợp nhất đạt 42%. Động lực tăng trưởng chính trong quý 1 đến từ việc đẩy mạnh hoạt động phát hành thẻ tín dụng, dịch vụ bảo hiểm và hoạt động thanh toán.
Việc kịp thời điều chỉnh chiến lược về sản phẩm và chiến lược huy động của Ngân hàng tiếp tục phát huy hiệu quả, giúp gia tăng tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn (CASA) tại ngân hàng mẹ từ mức 15,5% cuối năm 2020 lên mức 17% cuối kỳ 1 năm 2021.
Song song với xu hướng nâng cao tỷ trọng tiền gửi CASA, tiếp tục nắm bắt cơ hội thanh khoản của thị trường cùng với việc linh hoạt điều tiết bảng cân đối và cơ cấu nguồn vốn, chi phí vốn của VPBank cũng đã giảm đáng kể ngay từ quý 1/2021. Chi phí huy động vốn (COF) của ngân hàng riêng lẻ giảm tới 1,3% so với cả năm 2020 và giảm 0,6% so với quý 4 năm 2020, tại ngân hàng hợp nhất, COF cũng giảm 1,2% so với năm 2020.
Cùng với đó, chi phí hoạt động (OPEX) của ngân hàng tiếp tục được kiểm soát hiệu quả trong kỳ, giảm gần 21% so với cùng kỳ năm trước. Ngân hàng lý giải đây là kết quả của quá trình chuyển đổi số mà VPBank triển khai mạnh mẽ những năm qua, đặc biệt với nhiều dự án triển khai thành công trong năm 2020. Nhờ đó, tỷ lệ chi phí trên thu nhập (CIR) hợp nhất của VPBank tiếp tục giảm từ 29,2% cuối năm 2020 xuống còn 23,5% trong quý 1/2021, tiếp tục ở mức dẫn đầu thị trường.
Công cuộc chuyển đổi số và nâng cao trải nghiệm khách hàng tiếp tục được đẩy mạnh và đã mang lại những kết quả rất khả quan. VPBank đã cán mốc 9 triệu giao dịch/tháng trong tháng 3/2021, gấp 2,25 lần so với cùng kì năm 2020 về số lượng giao dịch. Về giá trị giao dịch online đạt 128 nghìn tỷ đồng trong tháng 3/2021, cao gấp 2,2 lần so với cùng kì 2020.
Về chất lượng tín dụng, đến cuối quý 1/2021, tỷ lệ nợ xấu (phân loại theo Thông tư 02) tại ngân hàng hợp nhất ở mức 3%. Tại ngân hàng riêng lẻ, tỷ lệ nợ xấu giảm xuống mức 1,79% so với mức 1,98% cuối năm 2020. Bên cạnh đó, thu nhập từ nợ đã xử lý cũng tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm ngoái, đạt mức tăng 56% tại ngân hàng hợp nhất với số tuyệt đối tương đương 705 tỷ đồng, còn tại FE Credit thu nhập này tăng gần 110% so với cùng kỳ.
Các tỷ lệ an toàn của VPBank trong quý 1/2021 tiếp tục được duy trì ở mức tốt, tuân thủ quy định của Ngân hàng Nhà nước. Trong đó, tỷ lệ cho vay so với huy động (LDR) ở mức 73,5% (so với giới hạn 85%) và tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn được kiểm soát ở mức 29,9% (so với yêu cầu 40%). Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) theo Thông tư 41 của Ngân hàng hợp nhất đạt gần 12%, tiếp tục duy trì ở mức an toàn và cao hơn mức tối thiểu 8% của Ngân hàng Nhà nước.